TRANG CHỦ | TIN TỨC | TIN TỨC XÂY DỰNG
Ngành Xây dựng: Duy trì tăng trưởng bền vững
Tin đăng ngày: 14/1/2015 - Xem: 2147
 

16:02 | 13/01/2015

 

 

Ngành Xây dựng: Duy trì tăng trưởng bền vững

(Xây dựng) - Theo giá hiện hành, giá trị sản xuất ngành Xây dựng năm 2014 đạt 849nghìn tỷ đồng (tăng 10,2% so với năm 2013); tính theo giá so sánh năm 2010 đạt 676nghìn tỷ đồng (tăng 7,6% so với năm 2013). Theo giá so sánh năm 2010, giá trị tăng thêm của ngành Xây dựng năm 2014 là 161,87 nghìn tỷ đồng, tăng 7,07% so với năm 2013 (cao hơn mức tăng 5,87% của năm trước), chiếm tỷ trọng 6,0% GDP cả nước.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trịnh Đình Dũng cho biết, ngành Xây dựng bước vào thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2014 trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp, kinh tế thế giới và trong nước phục hồi chậm hơn dự báo; chất lượng, hiệu quả, năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh của ngành và của một số sản phẩm chủ yếu còn hạn chế; các DN ngành Xây dựng vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển… Vì vậy, ngay từ đầu năm, Bộ Xây dựng đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Chính phủ số 01/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2014; nghiêm túc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp được nêu trong Nghị quyết liên quan đến các lĩnh vực của ngành. Trong đó, đã tập trung cao độ hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý nhà nước theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải cách hành chính; đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch xây dựng; tăng cường quản lý đầu tư xây dựng, kiểm soát phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch; tiếp tục thực hiện đồng bộ, kiên định các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho thị trường BĐS gắn với thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia, đặc biệt là nhà ở xã hội; thực hiện tái cơ cấu ngành Xây dựng...

Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành, sự ủng hộ và vào cuộc tích cực của các địa phương cùng với sự nỗ lực, phấn đấu của toàn thể cán bộ, CNVC-LĐ và cộng đồng DN trong toàn ngành, ngành Xây dựng đã đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực. Các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu của ngành vẫn duy trì được sự tăng trưởng theo kế hoạch đã đề ra, góp phần vào những chuyển biến tích cực của nền kinh tế đất nước.

Xây dựng và hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước: Tư tưởng đổi mới

Công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý nhà nước ngành Xây dựng phù hợp cơ chế thị trường, định hướng XHCN được tập trung thực hiện, với những quan điểm, tư tưởng đổi mới căn bản, mang tính đột phá; chất lượng văn bản quy phạm pháp luật được nâng lên một bước, qua đó đã góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của ngành.

Năm 2014, Bộ đã tập trung cao độ cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý nhà nước. Đặc biệt đã hoàn thiện để trình Quốc hội thông qua 3 dự án luật quan trọng, bao gồm: Luật Xây dựng (sửa đổi), Luật Nhà ở (sửa đổi), Luật Kinh doanh BĐS (sửa đổi), với những quan điểm, tư tưởng đổi mới căn bản, mang tính đột phá.

Ngoài 3 dự án luật đã được Quốc hội thông qua, năm 2014 Bộ Xây dựng đã hoàn thiện trình Chính phủ 19 dự án, đề án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (trong đó có 6 dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Xây dựng 2014). Chính phủ đã ban hành 1 nghị quyết, 1 nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 8 quyết định, Bộ ban hành 21 thông tư (trong đó có 3 thông tư liên tịch) về các lĩnh vực quản lý nhà nước của ngành Xây dựng.

Các cơ chế chính sách mới ban hành với những quan điểm, tư tưởng đổi mới, được các cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng DN, người dân và xã hội đồng tình, ủng hộ và đánh giá cao, từng bước đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng, góp phần tích cực nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.

Quản lý đầu tư xây dựng: Góp phần chống thất thoát, lãng phí

Công tác quản lý đầu tư xây dựng được tăng cường, góp phần tích cực chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng, nâng cao chất lượng công trình và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.

Đồng thời với việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, Bộ Xây dựng đã chỉ đạo tăng cường công tác quản lý đầu tư xây dựng, trọng tâm là quản lý chất lượng công trình và quản lý chi phí xây dựng. Công tác quản lý chất lượng công trình theo quy định tại Nghị định số 15/2013/NĐ-CP đã được các Bộ, ngành, địa phương triển khai nghiêm túc và đi vào nề nếp. Thông qua thẩm tra thiết kế, dự toán của các cơ quan chuyên môn về xây dựng đã góp phần tích cực phòng chống thất thoát, lãng phí, khắc phục các sai sót về thiết kế; việc kiểm tra công tác nghiệm thu cũng đã giúp khắc phục được các khiếm khuyết về chất lượng trước khi đưa công trình vào khai thác, sử dụng.

Tổng hợp báo cáo của 61 tỉnh, thành, trong năm 2014 đã thực hiện thẩm tra 15.341 công trình, tỷ lệ hồ sơ thiết kế phải sửa đổi, bổ sung chiếm khoảng 43,8% tổng số hồ sơ được thẩm tra, tổng giá trị dự toán trước thẩm tra khoảng 108.240 tỷ đồng, giá trị cắt giảm sau khi thẩm tra là 5.833 tỷ đồng (tương đương 5,39%).

Chất lượng các công trình trọng điểm, công trình quan trọng quốc gia về cơ bản đã được kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, yêu cầu thiết kế, tuân thủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn áp dụng và đưa vào vận hành, khai thác an toàn, hiệu quả. Trong năm 2014, Bộ Xây dựng cũng đã phối hợp cùng các Bộ, ngành, địa phương tiến hành kiểm tra, kiểm định chất lượng các công trình cầu treo, các công trình dạng tháp; kiểm tra, đánh giá an toàn hồ, đập thủy điện, thủy lợi trên phạm vi toàn quốc. Kiểm tra, xử lý các vụ việc, sự cố về chất lượng công trình xây dựng. Nhìn chung chất lượng công trình xây dựng trong năm 2014 cơ bản là đảm bảo, từng bước được nâng cao và kiểm soát tốt hơn.

Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật cho phù hợp với công nghệ, biện pháp thi công mới để làm cơ sở cho việc lập đơn giá, quản lý chi phí và thanh, quyết toán công trình được kịp thời, công khai, minh bạch. Công tác cấp phép xây dựng và quản lý xây dựng theo giấy phép tiếp tục có sự chuyển biến tích cực. Công tác quản lý năng lực hoạt động xây dựng, công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành trong hoạt động đầu tư xây dựng tiếp tục được quan tâm, đẩy mạnh.

Phát triển đô thị và nông thôn: Quy hoạch có tầm nhìn dài hạn

Công tác lập quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn được tập trung thực hiện và có nhiều đổi mới; công tác quản lý, kiểm soát phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch đã có những chuyển biến tích cực, từng bước đảm bảo sự phát triển đô thị hài hòa, bền vững. Bộ Xây dựng thường xuyên chỉ đạo việc đổi mới và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch xây dựng, tập trung đẩy nhanh tốc độ lập quy hoạch và xác định rõ các nguồn lực thực hiện, để bảo đảm quy hoạch phải thực sự đi trước một bước và có tính khả thi cao, làm cơ sở cho việc kế hoạch hóa đầu tư và quản lý thực hiện các dự án đầu tư xây dựng.

Bộ đã chủ trì, phối hợp với các địa phương, tiến hành rà soát các quy hoạch vùng, quy hoạch chung, quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật các đô thị trên phạm vi cả nước; tích cực lập, thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các đồ án quy hoạch quan trọng theo phân cấp. Trong năm 2014, Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 11 đồ án quy hoạch xây dựng, 6 nhiệm vụ đồ án quy hoạch xây dựng, 6 đồ án quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật; chỉ đạo các địa phương tích cực xây dựng quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị.

Đến nay, cả nước có 15 quy hoạch xây dựng vùng liên tỉnh đã được phê duyệt; 60/63 tỉnh phê duyệt quy hoạch xây dựng vùng tỉnh; 15/15 khu kinh tế ven biển, 13/28 khu kinh tế cửa khẩu đã được phê duyệt quy hoạch chung. Tỷ lệ phủ kín quy hoạch chung đô thị đạt 100%; quy hoạch phân khu đạt khoảng trên 70%; quy hoạch chi tiết đạt khoảng trên 30%; quy hoạch xây dựng nông thôn đạt 94,9% (tăng 11,4% so với năm 2013). Công tác quy hoạch ngày càng được các địa phương quan tâm, các đồ án quy hoạch thể hiện được tư duy đổi mới, có tầm nhìn dài hạn, chất lượng ngày càng nâng cao.

Bộ Xây dựng đã chỉ đạo các địa phương tích cực triển khai Nghị định 11/2013/NĐ-CP về quản lý đầu tư phát triển đô thị, trọng tâm là kiểm soát phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch. Các địa phương đã và đang tiến hành lập chương trình phát triển đô thị của tỉnh, lập và phê duyệt khu vực phát triển đô thị, thành lập BQL khu vực phát triển đô thị; rà soát, phân loại, điều chỉnh các dự án đầu tư phát triển đô thị; tăng cường kiểm soát các dự án từ khâu quy hoạch, chấp thuận đầu tư cho đến kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện. Các chương trình, đề án cấp quốc gia về phát triển đô thị tiếp tục được triển khai theo kế hoạch. Bộ Xây dựng cũng đã tích cực phối hợp với các địa phương triển khai việc nâng loại và công nhận loại đô thị đối với 20 đô thị.

Tính đến tháng 12/2014, cả nước có 774 đô thị (tăng 4 đô thị so với năm 2013), trong đó có 2 đô thị đặc biệt, 15 đô thị loại I, 21 đô thị loại II, 42 đô thị loại III, 67 đô thị loại IV và 627 đô thị loại V; các chỉ tiêu về tỷ lệ đô thị hóa, chỉ tiêu hạ tầng kỹ thuật đô thị đều có chuyển biến tích cực so với năm 2013

Phát triển nhà ở: Đặc biệt chú trọng tới người nghèo

Công tác phát triển nhà ở theo Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia tiếp tục được đẩy mạnh, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhà ở người dân, đặc biệt các đối tượng người có công, người nghèo ở khu vực thường xuyên bị bão, lũ, ngập lụt, người thu nhập thấp đô thị có khó khăn về nhà ở.

Tiếp tục thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia, Bộ Xây dựng đã chỉ đạo, hướng dẫn và hỗ trợ các địa phương xây dựng Chương trình phát triển nhà ở của địa phương. Đến nay có 34 tỉnh đã phê duyệt Chương trình; 6 tỉnh đã hoàn thành xây dựng Chương trình, đang trình HĐND tỉnh xem xét, thông qua; 23 địa phương đang xây dựng chương trình, dự kiến hoàn thành trong năm 2015.

Bộ đã chỉ đạo, phối hợp với các địa phương tập trung triển khai các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người có công, các hộ nghèo vùng ngập lũ ĐBSCL, nhà ở cho các hộ nghèo phòng tránh lũ, lụt khu vực miền Trung; chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội khu vực đô thị để cải thiện chỗ ở cho sinh viên, công nhân, người thu nhập thấp. Kết quả cụ thể như sau:

Chương trình hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách mạng, đến tháng 12/2014 đã thực hiện hỗ trợ cho 40.809 hộ (đạt 57,3%), trong đó có 34.060 hộ đã hoàn thành và 6.763 hộ đang triển khai. Bộ Tài chính đã thực hiện giải ngân 1.900 tỷ đồng vốn ngân sách Trung ương (đạt 84%).

Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ ĐBSCL giai đoạn 2: Đã cơ bản hoàn thành đầu tư xây dựng 178/179 cụm, tuyến dân cư và bờ bao (đạt tỷ lệ 99%) và bố trí cho 42.792/56.520 hộ dân thuộc đối tượng thụ hưởng chương trình vào ở (đạt tỷ lệ 75,7%).

Chương trình hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở phòng, tránh lũ, lụt khu vực miền Trung theo Quyết định 48/2014/QĐ-TTg, tổng số hộ cần hỗ trợ là 40.500 hộ, kinh phí dự kiến 1.157 tỷ đồng. Chương trình triển khai từ tháng 9/2014, đến nay các địa phương đã cơ bản hoàn thành việc rà soát đối tượng, phê duyệt đề án để thực hiện hỗ trợ.

Chương trình 167 giai đoạn 2 (dự kiến hỗ trợ cho 510.700 hộ): Hiện nay Bộ Xây dựng đang phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình để thực hiện trong năm 2015.

Các dự án phát triển nhà ở xã hội khu vực đô thị: Đến nay, cả nước đã hoàn thành đầu tư xây dựng 102 dự án nhà ở xã hội, trong đó có 38 dự án nhà ở cho người thu nhập thấp, quy mô xây dựng 19.686 căn hộ; 64 dự án nhà ở cho công nhân, với quy mô xây dựng 20.277 căn hộ. Hiện đang tiếp tục triển khai 150 dự án, trong đó có 91 dự án nhà ở cho người thu nhập thấp, quy mô xây dựng khoảng 55.830 căn hộ; 59 dự án nhà ở cho công nhân, quy mô xây dựng khoảng 66.753 căn hộ. Chương trình phát triển nhà ở sinh viên đã có 75 dự án hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng, giải quyết chỗ ở cho khoảng 145.000 sinh viên.

Năm 2014, tổng diện tích sàn nhà ở toàn quốc tăng thêm 92 triệu m2 so với năm 2013, diện tích bình quân nhà ở toàn quốc đạt khoảng 20,6m2 sàn/người, tăng 1m2 sàn/người so với năm 2013; cả nước đã phát triển thêm khoảng 0,8 triệu m2 nhà ở xã hội (tương đương khoảng 12 nghìn căn hộ), đưa tổng diện tích nhà ở xã hội toàn quốc đạt khoảng 1,8 triệu m2.

Thị trường BĐS: Chuyển biến tích cực

Trong bối cảnh thị trường BĐS rơi vào tình trạng “đóng băng” giai đoạn 2011-2012, Bộ Xây dựng đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, nghiên cứu đề xuất các nhóm giải pháp tháo gỡ khó khăn cho thị trường BĐS với quan điểm tháo gỡ khó khăn cho thị trường BĐS phải gắn với thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia mà trọng tâm là phát triển nhà ở xã hội, nhằm khắc phục sự lệch pha cầu cung - cầu, điều chỉnh cơ cấu hàng hóa một cách hợp lý, sao cho các sản phẩm BĐS chủ yếu phải phù hợp với nhu cầu thực và khả năng thanh toán của đại đa số người dân. Các giải pháp do Bộ Xây dựng đề xuất đã được Chính phủ thống nhất đưa vào Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 để thực hiện.

Thực tế qua 2 năm triển khai đã khẳng định các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho thị trường BĐS gắn với thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia do Bộ Xây dựng chủ động đề xuất là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp, vừa giúp cho thị trường hồi phục tích cực, vừa tháo gỡ khó khăn cho các DN xây dựng và BĐS, vừa đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội, giải quyết một cách căn bản nhu cầu nhà ở cho các nhóm đối tượng có khó khăn về nhà ở, được đánh giá là việc làm có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội, nhân văn sâu sắc. Nhiều DN BĐS đã chủ động điều chỉnh chiến lược kinh doanh như: chuyển mạnh sang phát triển nhà ở xã hội; chia nhỏ căn hộ, sử dụng vật liệu hoàn thiện trong nước để giảm giá thành; hỗ trợ cho người mua nhà bằng nhiều hình thức... Thị trường BĐS đã hướng tới bộ phận đa số người mua, cung cấp các hàng hóa phù hợp với nhu cầu thực và khả năng thanh toán của thị trường. Niềm tin vào thị trường đã được khôi phục. Trong năm 2014, thị trường BĐS tiếp tục đà phục hồi tích cực, thể hiện qua lượng giao dịch tăng; giá cả tương đối ổn định; lượng tồn kho BĐS tiếp tục giảm; cơ cấu hàng hóa BĐS chuyển dịch theo hướng hợp lý, phù hợp hơn với nhu cầu của thị trường; tăng trưởng tín dụng BĐS cao hơn mức tăng trưởng tín dụng chung, BĐS vẫn là kênh hấp dẫn vốn.

Về thực hiện gói tín dụng 30 nghìn tỷ đồng hỗ trợ nhà ở xã hội, tính đến 15/12/2014, tổng số tiền 5 ngân hàng đã cam kết cho vay là 9.417 tỷ đồng, đạt 31,39% (tháng 6/2014 mới đạt 13,47%), đã giải ngân là 4.882 tỷ đồng, đạt 16,27% (tháng 6/2014 mới đạt 7,63%). Tốc độ giải ngân 6 tháng cuối năm tăng gấp hơn 2 lần so với giai đoạn từ tháng 6/2014 trở về trước, nhất là sau khi Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước trình Chính phủ ban hành Nghị quyết 61/NQ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 02/NQ-CP, trong đó đã mở rộng đối tượng cho vay, kéo dài thời hạn cho vay; đồng thời có nhiều dự án nhà ở xã hội được triển khai tạo thêm nguồn cung cho thị trường.

Năm 2014, tại Hà Nội có khoảng 11.450 giao dịch BĐS thành công (tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2013) và tại TP.HCM có khoảng 10.350 giao dịch thành công (tăng khoảng 30% so với năm 2013). Mặt bằng giá cả nhà ở nhìn chung ổn định. Tính đến 15/12/2014, tổng giá trị tồn kho BĐS còn khoảng 73.889 tỷ đồng, giảm 20.569 tỷ đồng (giảm 21,8%) so với tháng 12/2013 và giảm 54.659 tỷ đồng (giảm 42,52%) so với đầu kỳ báo cáo vào quý I/2013.

VLXD: Bám sát nhu cầu của thị trường

Công tác quản lý phát triển VLXD được tăng cường trên cơ sở tuân thủ quy hoạch, bám sát nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu, duy trì sự ổn định thị trường xi măng và các VLXD chủ yếu, tiếp tục đẩy mạnh phát triển vật liệu xây không nung.

Bộ Xây dựng đã tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch phát triển VLXD chủ yếu như: Quy hoạch tổng thể phát triển VLXD Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, Quy hoạch phát triển xi măng, Quy hoạch phát triển vôi công nghiệp, Quy hoạch phát triển gốm sứ xây dựng, đá ốp lát. Chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương tổ chức lập và kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện các quy hoạch, chương trình phát triển VLXD.

Để bảo đảm cân đối cung - cầu, bình ổn thị trường xi măng, Bộ đã đề xuất và được Thủ tướng Chính phủ đồng ý đưa 5 dự án xi măng có công suất dưới 2.500 tấn clinker/ngày ra khỏi quy hoạch, hoãn thực hiện 9 dự án đến giai đoạn sau 2015, bổ sung thêm 1 dự án thực hiện trước năm 2015. Trong năm 2014 có thêm 3 dự án xi măng đi vào vận hành, nâng tổng số dây chuyền sản xuất xi măng lên 74 với tổng công suất thiết kế là 77,35 triệu tấn, công suất huy động khoảng 73-74 triệu tấn. Tổng sản lượng xi măng, clinker tiêu thụ năm 2014 khoảng 70,6 triệu tấn, đạt 110,3% kế hoạch, tăng 15% so với năm 2013; trong đó, tiêu thụ nội địa khoảng 50,9 triệu tấn (tăng 10% so với 2013), xuất khẩu khoảng 19,7 triệu tấn (tăng 30% so với 2013).

Chương trình phát triển vật liệu xây không nung được đẩy mạnh, góp phần tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường; hiện đã có 30 tỉnh xây dựng lộ trình xóa bỏ lò gạch thủ công, lò thủ công cải tiến, lò vòng sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Các loại VLXD chủ yếu khác cơ bản đáp ứng nhu cầu xây dựng trong nước và một phần được xuất khẩu.

Cải cách hành chính: Thuận lợi cho DN và người dân

Công tác cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính (TTHC) được đẩy mạnh, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng, thuận lợi cho DN, người dân tham gia hoạt động đầu tư xây dựng.

Trong năm 2014, Bộ Xây dựng tiếp tục đẩy mạnh cải cách TTHC trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, trên nguyên tắc công khai, minh bạch, đơn giản hóa quy trình, thủ tục, hồ sơ và rút ngắn thời gian thực hiện để không gây phiền hà, tốn kém cho DN, người dân và xã hội, nhưng phải bảo đảm duy trì trật tự, kỷ cương, không cực đoan loại bỏ các TTHC cần thiết bằng mọi giá.

Bộ đã ban hành Quy chế thực hiện kiểm soát TTHC và tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính của Bộ Xây dựng. Thực hiện đơn giản hóa 79 TTHC (đạt 100% các TTHC phải thực thi); công bố công khai, kịp thời các TTHC mới ban hành, TTHC sửa đổi, bổ sung và TTHC bãi bỏ; thông báo cập nhật các TTHC mới ban hành vào Cơ sở dữ liệu quốc gia. Tiến hành kiểm tra 142 văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ, ngành, địa phương ban hành; kiểm tra công tác cải cách hành chính tại các đơn vị trực thuộc Bộ.

Quản lý phát triển DN: Tập trung tái cơ cấu

Các DN ngành Xây dựng tập trung đẩy mạnh tái cơ cấu, nỗ lực vượt qua khó khăn để duy trì việc làm và thu nhập cho người lao động. Tại thời điểm 01/01/2014, tổng số DN hoạt động trong các lĩnh vực của ngành Xây dựng là 75.998 DN, tăng 3.770 DN so với thời điểm 01/01/2013.

Giá trị sản xuất ngành Xây dựng năm 2014 theo giá hiện hành ước đạt 849 nghìn tỷ đồng, bao gồm: khu vực Nhà nước đạt 84,3 nghìn tỷ đồng (giảm 8,9% so với 2013), chiếm 9,9%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 709,9 nghìn tỷ đồng (tăng 10,3% so với 2013), chiếm 83,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 54,8 nghìn tỷ đồng (tăng 62,3% so với 2013), chiếm 6,5%.

Giá trị sản xuất ngành Xây dựng năm 2014 theo giá so sánh 2010 ước tính đạt 676 nghìn tỷ đồng, tăng 7,6% so với năm 2013, trong đó: khu vực Nhà nước đạt 69,2 nghìn tỷ đồng, giảm 10,9%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 563,1 nghìn tỷ đồng, tăng 7,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 43,8 nghìn tỷ đồng, tăng 58%. Giá trị tăng thêm của ngành Xây dựng năm 2014 là 161,87 nghìn tỷ đồng, tăng 7,07% so với năm 2013, chiếm tỷ trọng 6,0% GDP cả nước. Lĩnh vực kinh doanh BĐS và xây dựng là 2 lĩnh vực thu hút mạnh vốn đầu tư FDI.

Các TCty nhà nước thuộc Bộ Xây dựng đều tập trung thực hiện đề án tái cơ cấu đã được phê duyệt, trọng tâm là cổ phần hóa và thoái vốn tại các dự án đầu tư ngoài lĩnh vực kinh doanh chủ yếu. Trong năm, Bộ đã hoàn thành cổ phần hóa thêm 4 TCty (Viglacera, Viwaseen, Xây dựng Hà Nội, Xây dựng Bạch Đằng), đưa tổng số TCty đã hoàn thành cổ phần là 6/15 TCty, hiện đang tiến hành cổ phần hóa tiếp 9 TCty còn lại, dự kiến hoàn thành trong năm 2015. Các TCty đã và đang tiến hành thoái vốn tại 54 danh mục thoái vốn với giá trị 2.377 tỷ đồng, đạt 47,1% kế hoạch thoái vốn.

Tổng giá trị sản xuất, kinh doanh các DN thuộc Bộ ước đạt 149.587 tỷ, đạt 106,9% kế hoạch, bằng 103,6% so với cùng kỳ; doanh thu ước đạt 133.391 tỷ, bằng 104% so với cùng kỳ; lợi nhuận trước thuế ước đạt 2.829 tỷ, bằng 154% so với cùng kỳ.

Phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực

Ngoài ra, công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ thường xuyên được quan tâm; công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực được chú trọng; hợp tác quốc tế được đẩy mạnh. Triển khai thực hiện Chiến lược phát triển khoa học công nghệ ngành Xây dựng đến năm 2020; đẩy mạnh nghiên cứu chiến lược, chính sách vĩ mô phục vụ quản lý nhà nước, đồng thời tích cực nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến trong ngành nhằm giải quyết kịp thời các vấn đề đặt ra trong thực tiễn. Tiếp tục triển khai Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; nghiên cứu, sắp xếp, kiện toàn mạng lưới các trường đào tạo; đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, cán bộ chuyên môn, công nhân kỹ thuật.

Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế, tăng cường trao đổi kinh nghiệm, vận động thu hút các nguồn lực nhằm nâng cao năng lực quản lý và đẩy mạnh đầu tư phát triển các lĩnh vực thuộc ngành.

Những tồn tại cần khắc phục

Bên cạnh những mặt tích cực, Bộ Xây dựng cũng chỉ ra một số tồn tại, hạn chế cần phải khắc phục. Đó là: Chất lượng một số công trình xây dựng còn thấp; tình trạng thất thoát, lãng phí, chậm tiến độ thi công, nợ đọng trong xây dựng cơ bản vẫn còn là vấn đề gây nhiều bức xúc; việc rà soát, sửa đổi, bổ sung một số định mức kinh tế - kỹ thuật trong lĩnh vực xây dựng còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

Việc rà soát, điều chỉnh, bổ sung một số đồ án quy hoạch xây dựng vùng, quy hoạch chung đô thị, quy hoạch hạ tầng kỹ thuật còn chậm; tỷ lệ phủ kín quy hoạch xây dựng tại một số đô thị chưa cao; công tác lập và quản lý thực hiện quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị và thiết kế đô thị ở một số nơi còn chậm, ảnh hưởng đến công tác quản lý trật tự xây dựng đô thị.

Công tác quản lý, kiểm soát phát triển đô thị theo quy định tại Nghị định 11/2013/NĐ-CP ở một số nơi còn thiếu quyết liệt; việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội tại một số dự án khu đô thị còn chậm và thiếu đồng bộ; công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị còn nhiều bất cập, việc lựa chọn công nghệ phù hợp với điều kiện của Việt Nam còn khó khăn.

Công tác phát triển nhà ở xã hội tại một số địa phương chưa thực sự được quan tâm đúng mức, chưa thu hút được nhiều DN tham gia đầu tư; nguồn cung nhà ở xã hội còn thiếu nhiều so với nhu cầu thực tế, nhất là nhà ở cho công nhân các KCN; chất lượng dịch vụ, công tác quản lý sử dụng chung cư ở một số dự án nhà ở tái định cư còn nhiều bất cập.

Thị trường BĐS tuy đã có chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn khó khăn; lượng tồn kho BĐS đã giảm nhiều so với đầu năm 2013 nhưng hiện vẫn còn lớn, nhất là các sản phẩm ở phân khúc trung và cao cấp.

Công tác cải cách TTHC trong đầu tư xây dựng tuy đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng vẫn còn hạn chế, tình trạng dự án đầu tư xây dựng bị kéo dài thời gian thực hiện TTHC so với quy định còn khá phổ biến, làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và hiệu quả của dự án đầu tư.

Các DN thuộc Bộ nhìn chung vẫn còn khó khăn; tiến trình thực hiện tái cơ cấu còn chậm, nhất là việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành nghề kinh doanh chủ yếu do vướng mắc các quy định về bảo toàn vốn nhà nước.

Một số đề nghị với địa phương, DN

Tổ chức triển khai có hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư xây dựng, nhà ở, kinh doanh BĐS mới được Quốc hội, Chính phủ ban hành; chủ động, tích cực trong việc phối hợp, tham gia góp ý xây dựng hệ thống cơ chế chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật của ngành.

Rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch xây dựng và quy hoạch ngành, lĩnh vực làm cơ sở thực hiện kế hoạch hóa đầu tư và quản lý thực hiện dự án đầu tư theo quy hoạch và kế hoạch, bảo đảm khai thác, phát huy hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển.

Tổ chức thực hiện tốt các quy hoạch, chương trình, đề án thuộc ngành Xây dựng trên địa bàn như: các quy hoạch xây dựng, chương trình phát triển đô thị và hạ tầng kỹ thuật, các chương trình hỗ trợ nhà ở, các quy hoạch, chương trình phát triển VLXD... Đối với các địa phương có nhiều KCN tập trung cần chủ động thực hiện các giải pháp phát triển nhà ở cho công nhân.

Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước các lĩnh vực thuộc ngành Xây dựng tại địa phương, trong đó trọng tâm là các lĩnh vực: đầu tư xây dựng, quản lý phát triển đô thị, phát triển nhà ở và quản lý thị trường BĐS.

Các địa phương tập trung hoàn thiện bộ máy, nhân sự làm công tác quản lý nhà nước ngành Xây dựng tại địa phương, trong đó cần bổ sung, tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định dự án, thẩm định thiết kế, dự toán tại các cơ quan chuyên môn về xây dựng. Kiện toàn các BQLDA đầu tư xây dựng, thành lập các BQLDA chuyên ngành, BQLDA khu vực để quản lý các dự án có sử dụng vốn nhà nước; thành lập các BQL khu vực phát triển đô thị để giúp UBND cấp tỉnh quản lý, kiểm soát phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch.

Các đơn vị trong ngành chủ động xây dựng và thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực ngành Xây dựng. Các DN chủ động đẩy mạnh thực hiện đề án tái cơ cấu đã được phê duyệt, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa, chủ động tháo gỡ khó khăn, phát triển thị trường, giải quyết việc làm và nâng cao đời sống người lao động.

12 nhiệm vụ trong tâm của ngành Xây dựng năm 2015

Để hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch năm 2015, năm cuối của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015, dự báo trước những khó khăn, thách thức, Bộ Xây dựng đã đề ra 12 nhiệm vụ trong tâm thực hiện cho toàn ngành.

1. Tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của ngành, trong đó trọng tâm là xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các luật mới được Quốc hội thông qua năm 2014 (Luật Xây dựng, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh BĐS); sửa đổi, bổ sung các nghị định về nâng loại đô thị, quản lý VLXD...

2. Đổi mới và tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát trong đầu tư xây dựng theo quy định của Luật Xây dựng 2014 và các luật có liên quan đến hoạt động đầu tư xây dựng, nhất là đối với các dự án sử dụng vốn nhà nước, các công trình quy mô lớn, phức tạp, có ảnh hưởng lớn đến an toàn của cộng đồng, nhằm hạn chế thất thoát, lãng phí, bảo đảm chất lượng công trình, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.

3. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch xây dựng, rà soát điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch vùng liên tỉnh, quy hoạch khu chức năng đặc thù, quy hoạch chung đô thị trên phạm vi cả nước; đẩy nhanh tốc độ phủ kín quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết, thiết kế đô thị, quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị; hoàn thành quy hoạch xây dựng nông thôn mới.

4. Tăng cường quản lý và kiểm soát phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch; tích cực thực hiện Nghị định số 11/2013/NĐ-CP, chỉ đạo các địa phương khẩn trương xây dựng chương trình phát triển đô thị, phê duyệt các khu vực phát triển đô thị, thành lập các BQL khu vực phát triển đô thị...; tích cực thực hiện các chương trình, dự án phát triển đô thị, hạ tầng kỹ thuật theo kế hoạch.

5. Triển khai thực hiện Luật Nhà ở 2014 và các văn bản hướng dẫn. Chỉ đạo các địa phương hoàn thành việc phê duyệt chương trình phát triển nhà ở của địa phương. Thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách mạng, người nghèo khu vực nông thôn, khu vực thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão, lũ. Đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp đô thị, nhà ở cho công nhân, nhà ở cho sinh viên.

6. Tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho thị trường BĐS gắn với thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia, đặc biệt là nhà ở xã hội. Tiếp tục rà soát, phân loại, điều chỉnh cơ cấu hàng hóa các dự án BĐS; đẩy mạnh tăng nguồn cung nhà ở xã hội, nhà ở thương mại có diện tích trung bình và nhỏ, giá bán thấp; tích cực hỗ trợ DN, người dân được tiếp cận gói hỗ trợ tín dụng nhà ở xã hội 30 nghìn tỷ đồng.

7. Tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy hoạch, chương trình, đề án phát triển VLXD, đặc biệt là xi măng và các VLXD chủ yếu, bảo đảm cân đối cung - cầu, bình ổn thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu; tích cực phát triển vật liệu xây không nung; kiểm soát chặt chẽ việc khai thác, chế biến và xuất khẩu khoáng sản làm VLXD.

8. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của ngành, đặc biệt là thủ tục hành chính trong đầu tư xây dựng; tổ chức thực hiện Đề án xác định vị trí việc làm đối với cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Xây dựng.

9. Tổ chức thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành Xây dựng; nghiên cứu, xây dựng các cơ chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh của các DN ngành Xây dựng; tích cực thực hiện cổ phần hóa các TCty nhà nước thuộc Bộ theo kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

10. Tổ chức thực hiện có hiệu quả Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng và Chiến lược phát triển khoa học công nghệ ngành Xây dựng đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề; đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ gắn kết chặt chẽ với thực tiễn sản xuất và quản lý của ngành.

11. Kiện toàn, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan chuyên môn về xây dựng các cấp, đáp ứng với yêu cầu tăng cường quản lý hoạt động đầu tư xây dựng. Nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng cường tính tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc ngành Xây dựng.

12. Tăng cường thanh tra, kiểm tra chuyên ngành Xây dựng, tích cực phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của ngành.

Một số chỉ tiêu của ngành phấn đấu đạt được trong năm 2015:

Tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 35,5%. Tỷ lệ quy hoạch vùng tỉnh đạt 100%, quy hoạch chung đạt 100%, quy hoạch phân khu đạt khoảng 72-75%, quy hoạch chi tiết 1/500 đạt khoảng 35%, quy hoạch xây dựng nông thôn đạt 100%. Tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đạt khoảng 80,5-81%, tỷ lệ thất thoát thất thu nước sạch giảm xuống còn 25%, tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị đạt khoảng 84,5-85%. Diện tích bình quân nhà ở toàn quốc đạt khoảng 21,5m2 sàn/người. Tổng sản lượng xi măng tiêu thụ đạt khoảng 70-72 triệu tấn. Giá trị sản xuất xây dựng toàn ngành (tính theo giá hiện hành) tăng khoảng 10% so với năm 2014.

Trích sẫn báo: http://www.baoxaydung.com.vn/

Tin tức xây dựng
 
DANH MỤC DỊCH VỤ
Thiết kế kiến trúc
Thiết kế thi công quán cà phê
Thiết kế thi công Quán Trà Sữa
Thi công Tiểu cảnh sân vườn
Thí nghiệm, kiểm định công trình
Xây dựng dân dụng
Tư vấn giám sát
Thi công điện, nước
Thiết kế thi công Nhà thờ
Thiết kế nội thất chung cư
Thiết kế biệt thự
Thiết kế ngoại thất
Xây dựng Giao thông, Thủy lợi
Thiết kế văn phòng
 
HỖ TRỢ ONLINE

Hotline - 0915.050.067

Văn phòng - 0915.050.067
Hôm nay: 95  - Tất cả: 563,625
 
CÔNG TRÌNH DỰ ÁN
 
  Home | Giới thiệu | Dịch vụ | Sản phẩm | Cẩm nang | Công trình dự án | Tin tức | Tuyển dụng | Liên hệ  
     
 

Công ty CP Kiến trúc và xây dựng Vinh Home
Địa chỉ: Số 32 ngõ 3H Mai Hắc Đế - TP Vinh - Nghệ An
|Điện thoại: 0915.050.067
Email: homevinh@gmail.com
Website: http://kientrucvinh.com

Chat hỗ trợ
Chat ngay

0915.050.067